Trong “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú có viết: Các vị tướng đạt đến bậc “đại danh tướng” trong lịch sử dân tộc, đó là: Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và Nguyễn Huệ.
Đến thế kỷ 20, trong thời đại Hồ Chí Minh, mẫu mực thứ tư để hợp thành “tứ đại danh tướng Việt Nam” là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nếu như trong bộ ba nhân tướng thời trung cổ, vị Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo đã được nhân dân suy tôn thành “Đức Thánh Trần” thì ở thế kỷ 20, “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng với đại võ công Điện Biên Phủ năm 1954 đã được suy tôn là “Vị tướng huyền thoại”(1).
Trước hết, từ thầy giáo dạy lịch sử trở thành người chỉ huy quân sự. Có một câu hỏi mà chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh mới lý giải một cách thấu đáo, đó là: Vì sao Người chọn Võ Nguyên Giáp - thầy giáo dạy lịch sử ở Trường Tư thục Thăng Long, về dung mạo thuộc hàng “bạch diện thư sinh” đảm nhiệm việc thành lập tổ chức quân sự và chỉ huy quân sự, trong khi ở thời kỳ đó, có hàng chục học viên Việt Nam tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) được đào tạo cơ bản về quân sự! Và ngay từ lần gặp đầu tiên năm 1940, tại Côn Minh (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy ở Võ Nguyên Giáp những dấu hiệu của một thiên tài quân sự và tin tưởng giao cho Võ Nguyên Giáp nhiệm vụ chỉ huy quân sự của cách mạng Việt Nam; đồng thời Người căn dặn Võ Nguyên Giáp “Phải tranh thủ học tập về quân sự”(2), quyết định giao cho Võ Nguyên Giáp việc thành lập và chỉ huy Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân vào ngày 22-12-1944. Đây là sự kiện đánh dấu và quyết định đến sự nghiệp chỉ huy quân sự của Võ Nguyên Giáp.
Thứ hai, Võ Nguyên Giáp là vị chỉ huy được phong quân hàm duy nhất chỉ có một lần-cấp hàm Đại tướng. Sau chiến dịch Đông Bắc năm 1947 giành thắng lợi, ngày 20-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110-SL phong quân hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp-Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ. Đây không chỉ là trọng trách mà Đảng, Nhà nước giao cho mà còn là sự tin tưởng vào tài năng, đức độ, “văn-võ song toàn”, có đầy đủ phẩm chất, nhân cách một người làm “Tướng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trao cho chú chức vụ Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ làm tròn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho”; và “Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là phải “trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung”(3). Những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào trái tim, khối óc và hành động cách mạng suốt cuộc đời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Thứ ba, trong hơn 30 năm là Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam cùng nhân dân ta đánh thắng các đội quân xâm lược của chủ nghĩa phát xít, thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Dưới quyền chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quân và dân ta đánh bại quân xâm lược của phát xít Nhật, để giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau đó, đánh thắng thực dân Pháp, kết thúc bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ-được đối phương coi là tập đoàn cứ điểm “bất khả xâm phạm”. Điều cần nhấn mạnh là, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”(4), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra nhiều quyết định quan trọng, trong đó có quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời làm tướng của mình là chuyển phương châm Chiến dịch Điện Biên Phủ từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ. Chính quyết định ấy đã góp phần làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, lập lại hòa bình ở miền Bắc nước ta.
Hiệp định Geneva ký kết chưa được bao lâu thì đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp xâm lược nước ta, đặt ách thống trị kiểu thực dân mới, buộc nhân dân ta phải tiếp tục cuộc kháng chiến mới, gay go, ác liệt hơn. Với ý chí quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, được Đảng, Nhà nước, Bác Hồ tiếp tục giao nhiệm vụ chỉ huy Quân đội ta, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cùng Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ huy toàn dân, toàn quân ta lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, đặc biệt là chiến thắng "Điện Biên phủ trên không" năm 1972 và chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã buộc nhiều viên đại tướng của Pháp, Mỹ phải hứng chịu thất bại ở Việt Nam. Đây không chỉ là chiến công lẫy lừng của quân và dân ta mà còn là sự kiện nổi bật trong lịch sử chiến tranh ở thế kỷ 20.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dù trên cương vị nào được Đảng, Nhà nước giao cho, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều dồn hết tâm sức, trí tuệ và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Và điều đặc biệt là, Võ Nguyên Giáp được nhân dân vinh danh là "Đại tướng của nhân dân"; được cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân gọi với cái tên trìu mến: “Anh Cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam-điều hiếm gặp trên thế giới!
Thứ tư, cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để lại cho quân và dân ta, nhất là các tướng lĩnh, sĩ quan quân đội “cẩm nang”, “sách gối đầu giường” qua những tác phẩm tổng kết hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc mà Đại tướng là vị chỉ huy tài ba, lỗi lạc và đã giành chiến thắng. Tiêu biểu trong kháng chiến chống Pháp là những tác phẩm: “Phát động du kích chiến tranh”, “Tiến mạnh sang giai đoạn mới”, “Chiến tranh giải phóng và Quân đội nhân dân-ba giai đoạn chiến lược”. Với kháng chiến chống Mỹ, Đại tướng đã viết nhiều tác phẩm bàn về lực lượng vũ trang nhân dân, chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chiến tranh nhân dân trên địa bàn sông nước... Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ năm 1975, Đại tướng có điều kiện nhìn nhận, đánh giá những vấn đề thuộc về chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghiên cứu sâu tư tưởng Hồ Chí Minh, nghệ thuật quân sự Việt Nam... và hàng loạt tác phẩm, hồi ký như: “Từ nhân dân mà ra”, “Chiến đấu trong vòng vây”, “Đường tới Điện Biên Phủ”, “Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử”, “Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng”, “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”... Điều đó càng chứng tỏ phẩm chất “văn-võ song toàn” của Đại tướng, đúng như Giáo sư Vũ Khiêu đã viết: “Võ công truyền Quốc sử/ Văn đức quán nhân tâm”.
Thứ năm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vĩnh biệt thế giới vào lúc 18 giờ 9 phút ngày 4-10-2013, để lại nỗi tiếc thương vô hạn với đồng bào, chiến sĩ cả nước và bạn bè quốc tế; là sự mất mát to lớn đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân. Giáo sư Vũ Khiêu viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp với lòng tiếc thương và cảm phục vô hạn: “Gương rọi đất trời rực sáng ngàn thu nhân lại trí/ Lệ tràn sông núi khóc than hai bác Võ như Hồ”! Giáo sư sử học Lê Văn Lan viết: “Mùa thu năm 2013, lịch sử thời hiện đại lại đang chứng kiến một điều huyền diệu: Bậc Nhân tướng thời đại Hồ Chí Minh họ Võ-khi được lập ban thờ ở khắp nơi, được các động tác thực hành tín ngưỡng và những lời lẽ nguyện cầu của rất nhiều người suy tôn thành kính... cũng đang “hóa thánh” và “hiển thánh”, đang hóa thân thành bậc Thánh tướng thời hiện đại”(5).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, trở thành mẫu mực thứ tư trong “Tứ đại danh tướng Việt Nam”, là “Vị tướng huyền thoại” của dân tộc Việt Nam. Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại công lao, tài năng, đức độ của người cộng sản kiên trung, mẫu mực, học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người “Anh Cả” của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Với lòng kính trọng và ngưỡng mộ của các thế hệ Bộ đội Cụ Hồ dành cho Đại tướng, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta nguyện phấn đấu không ngừng theo tấm gương của Đại tướng, quyết tâm xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại theo phương hướng, mục tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.